VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT
Phan_24
Mỗi người lại đọc nó bằng thứ tiếng của mình. Theo những gì Katya còn nhớ, thì câu chuyện có phần quanh co và cổ xưa. Đặc biệt là một người đàn ông đã đi tìm ba quả táo suốt ba mươi ngày để thỏa lòng người vợ yêu đang ốm. Sau những sóng gió, anh ta đã giết vợ mình trong cơn ghen tuông và sau đó mới bi thương phát hiện ra rằng vợ mình chung thủy, một Desdemona (2) và anh ta bị mê muội bởi một tên nô lệ dối trá.
Nhân vật nữ trong vở kịch Othello của w. Shakespeare. Desdemona bị chồng là Othello giết hại vi nghĩ rằng nàng ngoại tình.
Katya và Charlie ngồi lặng im một lúc.
“Tôi không nghĩ là chúng ta nên hoàn toàn bỏ qua yếu tố tôn giáo.” Charlie quả quyết nói.
“Tôi đồng ý. Trong cả hai vụ án, kẻ giết người đều để lại những lời trích dẫn mang ý nghĩa tôn giáo.”
“Chuyện này chỉ làm thay đổi việc chúng ta nghĩ thế nào về hắn mà thôi.” Charlie nói. “Để tôi hỏi cô điều này, ở đây có được đọc Đêm Ả Rập (3)không? Ý tôi là những người mộ đạo thấy thế nào về cuốn sách này? Nó thuộc loại sách không đứng đắn lắm, phải vậy không?”
Tên gọi khác của Nghìn lẻ một đêm.
“Đúng vậy, sách đó ở đây bị cấm.”
“Bị cấm sao?”
Katya gật đầu. “Chúng tôi không được phép đọc nó, nhưng dù sao thì chúng tôi vẫn đọc. Có rất nhiều người tự hào về cuốn sách này. Nó là một phần lịch sử của chúng tôi. Giống như Shakespeare đối với các cô vậy.”
“Vậy là các cơ quan có thâẩm quyền về tôn giáo đã cấm cuốn sách?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thì không có lý nào tên giết người vừa là một kẻ cuồng tín lại vừa đọc Đêm Ả Rập được.” Charlie nói.
“Đúng.” Katya nói. “Quả là vô lý.”
“Okay, đây là một ý nhé.” Charlie nói. “Chúng ta không biết ai là nạn nhân của vụ Osiris cả - và có khả năng là hung thủ của vụ Thiên sứ không phải kẻ đã giết cô ta. Hắn chỉ rải các bộ phận cơ thể của cô ta khắp thành phố mà thôi. Việc này có lẽ đã đem lại sự thỏa mãn cho hắn; nó đáp ứng một ham muốn mạnh mẽ nào đó. Hắn chỉ bắt đầu giết người mãi về sau này. Hắn đã giết mười chín phụ nữ.”
“Nếu hắn ta đang ở độ tuổi thành niên hoặc ngoài hai mươi vào năm 1989, thì tức là hắn khoảng ba mươi tuổi khi bắt đầu giết những nạn nhân được chôn ở sa mạc đó, điều này phù hợp vói những mô tả sơ lược kinh điển của một tên giết người hàng loạt. Bọn chúng bắt đầu giết người vào độ tuổi ba mươi. Trong vòng mười năm qua hắn đã giết những phụ nữ đó. Chúng ta có thể cho rằng hiện giờ hắn khoảng bốn mươi tuổi. Đó là một thông tin nhỏ mà hôm qua chúng ta vẫn chưa có được.”
“Okay.” Katya nói.
“Câu trích dẫn trong vụ Osiris là gì vậy nhỉ?” Charlie hỏi.
“Đó là Chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự.”
Charlie gật đầu. “Đó chính là mối quan tâm cơ bản của hắn - trật tự. Tôi cho rằng đây chính là cách hắn ta kiểm soát chính mình và biện minh cho những hành động của hắn. Cho tôi biết còn điều gì nữa về đạo Hồi khuyến khích sự cấu trúc nữa không?”
Katya nhún vai. “Đạo Hồi không... không quan tâm đến điều đó.”
“Thôi được.” Charlie nói. “Thế còn những công trình nghệ thuật của các cô thì sao? Tôi đang nghĩ đến những thứ và những đồ chạm khắc tinh vi đó. Chúng đều mang đậm tính chất hình học.”
“Đúng, cô nói đúng đấy. Cũng có cấu trúc dành cho mỗi ngày là năm lần cầu nguyện dựa theo sự vận động của mặt trời.”
“Ổn rồi.” Charlie nói. “Vậy hãy cho là hắn đã phân tán các bộ phận cơ thể trong vụ Osiris bởi hắn nhận ra chiếc hộp đó giống như trong truyện Nghìn lẻ một đêm. Điều đó có nghĩa hắn được giáo dục tương đối tốt. Hắn biết câu chuyện đó. Hắn cho rằng mình rất thông minh khi rải những bộ phận đó theo hình quả táo. Chúa ơi, có lẽ hắn ta đã đợi hàng thập kỷ rồi xem có ai nhận ra điều đó không. Dù sao đi nữa thì sau đó, khi hắn bắt đầu tự giết người, hắn đã lặp lại quy luật này đối với các nạn nhân bị chôn ở sa mạc đó. Chỉ đến giờ hắn mới thể hiện chính mình. Hắn đã cố áp đặt một trật tự nhất định trên thế giói này. 'Không chỉ là đối với những nạn nhân và cách hắn ta chôn bọn họ.Tôi cho rằng có thể hắn ta cũng đang cố áp đặt một loại trật tự mang tinh đạo đức nào đó - và đó chính là khi yếu tố tôn giáo được thể hiện ra “
“Ý cô là sao?”
“Hắn chủ yếu nhằm vào những phụ nữ ngoại quốc. Nếu cô đánh giá bọn họ dưới con mắt của một tín đồ Hồi giáo khắt khe, cô có thể biện luận rằng những phụ nữ này đang hành động không đúng phép tắc. Bọn họ sống trong các gia đình, thân thiết với những người đàn ông lạ mặt. Phần lớn bọn họ không phải tín đồ Hồi giáo, đúng không? Họ đều là người Philippines và Sri Lanka.”
“Một vài người trong số họ có thể là tín đồ Hồi giáo.” Katya nói “Nhưng hầu hết là không.”
“Bọn họ có lẽ còn giúp nuôi nấng trẻ em ở đây, phải vậy không? Bọn họ có ảnh hưởng đối với trẻ em Hồi giáo, trong khi lại không phải người Hồi giáo và có khả năng bọn họ không tuân theo những quy tắc xã hội đúng chuẩn mực như phụ nữ Ả Rập Xê-Út.”
“Đúng vậy.” Katya gật đầu. “Tôi hiểu cô muốn nói gì.”
“Ở đây có bất kỳ tổ chức nào chống đối việc sử dụng người ngoại quốc làm giúp việc không? Tôi đang nghĩ đến việc ở Mỹ có tổ chức Ku Klux Klan (4), một nhóm người muốn xã hội phải đi theo một cách thức nhất định, và thường sẵn sàng có những hành động phân biệt chủng tộc để đạt được mục đích. Những kiểu cộng đồng bí mật như vậy có thể đã lôi kéo những kẻ như tên giết người của chúng ta. Ở đây các cô có tổ chức nào như thế không?”
Đảng KKK hay đảng 3K là hội kín ở Mỹ với chủ trương đề cao thuyết Người da trắng thượng đẳng.
“Không.” Katya chau mày. “Hầu hết mọi người đều cho rằng nên có những lao động này ở đây. Người Ả Rập Xê-Út không cho rằng lao động là cần thiết với họ. Đó là việc của người khác.”
Charlie thở dài. “Đúng. Tôi nghĩ là tôi biết điều này rồi.”
“Vậy còn Amina thì sao?” Katya hỏi.
Charlie ngồi thẳng lên. “Tôi nghĩ cả hai ta đều cho rằng tên giết người đang viết một thông điệp mới. Chỉ không biết đó là gì thôi.”
Katya đang cố hình dung thông điệp này có thể là gì. Hắn là một gã điên bị chi phối bởi cảm giác tai quái của mình về ý nghĩa. Hắn là một tên đao phủ. Một thiên sứ gác cửa địa ngục. Điểm chung duy nhất giữa tất cả các vụ giết người của hắn và vụ Osiris là hắn viết nên những thông điệp. Hắn không chỉ bị ám ảnh bởi trật tự; sự điên dại của hắn còn được thể hiện qua những ngôn từ và những chữ cái. Hiền nhiên là hắn biết viết biết đọc - thậm chí có khi còn là người viết thư pháp. Nhưng điều đó thì có nghĩa gì nhỉ? Rằng bọn họ nên truy tìm tất cả nghệ sĩ và nhà văn ở Jeddah này hay sao?
Katya thấy bực dọc. Vụ án đang ngày càng lớn dần, luôn luôn xuất hiện những manh mối mới, mà điều đó đồng nghĩa với khối lượng công việc mệt mỏi trong hàng tuần liền.
“Đừng bỏ cuộc.” Charlie nói. “Chúng ta sẽ tìm được hắn. Chúng ta chỉ cần thu hẹp những đối tượng có thể tiếp cận chiếc hộp trong vụ Osiris vào cái ngày nó bị đánh cắp.”
“Đúng.” Katya nói. “Nhưng có thể là bất người nào đã có mặt ở bến thuyền đó.”
“Phải.” Charlie cười bí hiểm. “Nhưng có khả năng chính là một trong những thanh niên có mặt trên thuyền cùng Đại tá Sa'ud.”
Chương 40
Katya mệt mỏi kinh khủng. Ba tiếng ngủ đêm và thậm còn chập chờn vì lo lắng. Khi cô đi ngủ, đó không phải là nghỉ ngơi, chỉ có không gian tối đen mà trong đó nỗi sợ hãi của cô được phép sinh sôi nảy nở. Cô dậy trước lễ cầu nguyện đầu tiên và uống cà phê với Ayman trong xe trong khi họ đang kẹt tắc giữa dòng xe cộ trên đường, nghẹt thở vì những làn khói của chiếc xe tải chạy dầu diesel mà họ có vẻ không thể vượt qua được. Cô thấy biết ơn vì cậu đã im lặng.
Katya đang ngồi bên bàn làm việc lặng lẽ nhìn chăm chăm vào máy tính thì Zainab bước vào. Sếp của cô là một phụ nữ khắt khe và đời hỏi cao, một kiểu phụ nữ không bao giờ che mặt ở nơi làm việc. Những phụ nữ khác trong phòng thí nghiệm thỉnh thoảng lại thầm thì rằng vói một khuôn mặt như vậy, chồng bà ta không phải lo lắng sẽ có người đàn ông khác đưa bà ta đi mất. Katya không thích sự thực là bọn họ có lẽ đã nói đúng. Sáng nay, thái độ của bà ta có vẻ khó chịu hơn bình thường, cái trán vốn đã dô nay còn nhăn lại đến mức đôi mắt nhỏ xíu của bà ta gần như mất hút giữa những nếp nhăn.
Hai đồng nghiệp trong phòng thí nghiệm của Katya vừa đến, vừa treo túi xách phía trong cùng căn phòng rộng rãi vừa trao đổi về công việc. Zainab tiến về phía bàn làm việc của Katya.
“Cục đang cắt giảm ngân sách.” Bà ta nói rất khẽ khàng. “Và tôi e rằng họ sắp phải để cô ra đi.”
Katya nhìn bà ta chăm chăm. Cô thấy khó mà tiếp nhận được thông tin này.
“Tôi đã cố thuyết phục bọn họ để việc này chỉ là tạm thời, nên nó sẽ chỉ là một sự đình chỉ công việc...”
“Tại sao chứ?” Katya hỏi lại với giọng giận dữ hơn mức cô nghĩ.
“Chỉ là đến khi cân đối lại ngân sách thôi.”
“Thật lố bịch.” Katya nói. Đôi tay cô lạnh ngắt và cô có thể nghe thấy giọng mình đang run rẩy. Cô cảm thấy bên trong mình đang tê dại vì tất cả những chuyện này, nhưng cơ thể cô đang phản ứng lại. “Tôi là nhà nghiên cứu bệnh học chính của phòng thí nghiệm này. Tôi đã có thâm niên. Bọn họ định sa thải tất cả mọi người hay sao chứ?”
Zainab cau mày nhìn cô. Làm ơn đừng buộc tôi phải khiển trách cô. “Như tôi đã nói, chỉ là cho đến khi ngân sách được cân đối lại. Mong cô không nhìn nhận nó dưới góc độ cá nhân.”
Nhưng đó là vấn đề cá nhân. Vô cùng cá nhân. Cô nhìn Zainab, nghe bà ta đề cập cụ thể về việc chuyền giao khôi lượng công việc. Cuộc trao đổi vẫn đang tiếp diễn ở phía cuối phòng cho thấy là các đồng nghiệp của cô không nghe lỏm được điều gì. Nhưng Katya chắc chắn là bọn họ đã nhận ra nét mặt cô. Cô đứng lên, lao qua Zainab, rồi bỏ đi.
Giậm chân bước ngoài hàng lang. Vào phòng vệ sinh nữ. Không có khăn giấy. Cô lau mặt bằng vạt áo choàng và đi thẳng đến văn phòng của Chánh Riyadh. Cửa đóng, đèn tắt. Ngay cả bàn thư ký của ông ta cũng trống không. Có lẽ vẫn còn quá sớm, nhưng toà nhà đã náo nhiệt bởi tiếng nói cười và tiếng chuông thang máy. Cô đi thẳng xuống tầng một để tìm Majdi. Bước ra khỏi thang máy, cô đâm sầm vào Adara.
“Cậu đây rồi.” Adara nói. “Mình đã nghe về việc đình chỉ công tác.” Cô kéo Katya vào một góc khuất cạnh đài phun nước. “Abu-Musa đã nói với mình.”
“Làm sao ông ta biết?” Katya hỏi. Cô nhận ra giọng mình có vẻ khinh bỉ, nhưng cô không quan tâm.
“Mình không biết, nhưng ông ta đã cảnh báo mình. Nếu mình không giữ chừng mực như ông ta đặt ra, mình có thể là người kế tiếp.”
“Lão khốn.”
Adara rướn một bên lông mày. Dĩ nhiên. “Mình ngờ là chuyện này không phải do Chánh Riyadh đâu. Có khả năng đó là Mu'tazz. Ông ta biết về việc cậu có liên quan đến vụ ngoại tình của Zahrani và sa thải cậu, một cách phải phép, vì cách hành xử không đúng mực đó.”
“Mình sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu.” Katya nói.
Adara liếc nhìn dọc theo hành lang về phía phòng làm việc của Mu'tazz. Cửa đóng nhưng có ánh sáng hắt ra từ bên trong. “Hãy mặc áo choàng vào đi.” Cô nói.
Katya đẩy cô ra. Bước rầm rập dọc theo hành lang. Cô không khoác áo trùm lên và cô không thèm gõ cửa nữa. Cô chỉ đẩy nó mở và bước vào.
Mu'tazz đang ngồi bên bàn làm việc viết báo cáo bằng một chiếc bút dài, thanh nhã. Mức độ chăm chú, điệu bộ câẩn trọng, và niềm vui thích rõ ràng của ông ta đối với công việc, tất cả đều sụp đổ ngay khi ông ta ngước lên và nhìn thấy Katya. Ông ta đặt bút xuống.
“Tôi muốn biết tại sao tôi bị đình chỉ công tác.” Cô nói.
“Cô sẽ phải nói chuyện với Chánh Riyadh.” Ông ta đáp. Giọng đều đều. Ánh mắt ông ta chăm chú nhìn cô.
“Không.” Cô đáp. “Ông ấy không ở đây và tôi muốn biết ngay bây giờ. Đây là việc của ông.”
Ông ta chớp mắt và nhìn xuống bàn làm việc. “Chúng tôi hiểu rằng cô đã vượt quá giới hạn của mình.” Ông ta nói. “Và cô không thực hiện công việc mà thực tế cô được thuê để làm.”
“Thật vớ vẩn.”
Ông ta cười nhạt.
“Chính tôi là người đã phát hiện ra quy luật đầu tiên.” Cô nói. “Chính tôi là người đã rà soát tất cả các hồ sơ, cả ngày và đêm, đêể tìm ra một quy luật khác. Tôi đã khám phá ra vụ Osiris trong khi ông không hề nói gì với Thanh tra Zahrani, và hiện giờ tôi tin hai vụ án đó có liên quan với nhau.”
Thái độ tử tế của ông ta bắt đầu biến mất. Katya giải thích về mối liên hệ với “Câu chuyện ba quả táo”.
“Tôi không cho rằng tên giết người của vụ Thiên sứ là kẻ đã giết người phụ nữ trong chiếc hộp đó.” Cô nói. “Nhưng có thể hắn đã phân tán các bộ phận cơ thể của cô ta khắp thành phố theo hình lục giác. Hắn được giáo dục đủ tốt để nhận ra câu chuyện này trong cuốn sách bị cấm, và một thời điểm nào đấy sau đó, hắn đã quyết định tạo nên hai quả táo nữa để phù hợp với câu chuyện trên. Không quá khó khăn để giới hạn các đối tượng bị tình nghi đã ở trên thuyền cùng Đại tá Sa'ud ngày hôm đó. Tôi biết ông đã thẩm vấn họ rồi.”
“Lần trước tôi đã kiểm tra rồi.” Mu'tazz lạnh lùng nói. “Cô không phải là điều tra viên.”
“Tôi muốn có thêm chút thời gian nữa đề rà soát lại các hồ sơ.” Cô nói tiếp. “Tôi muốn tìm xem có hình lục giác thứ ba nào về những vụ giết người trong thành phố nữa hay không. Hiện giờ một phần công việc đang được thực hiện rồi, và những hồ sơ đó là manh mối duy nhất của chúng ta. Tôi cho rằng việc khám phá ra quy luật này là cơ hội tốt nhất để tìm được Amina al-Fouad.”
“Tôi lấy làm tiếc.” Mu'tazz vừa nói vừa cầm bút lên. “Cô sẽ phải nói chuyện với Chánh Riyadh thôi.”
“Tôi sẽ không rời khỏi đây cho đến khi chúng ta tóm được hung thủ.”
Cái vẻ mặt đó của ông ta là gì vậy nhỉ? Vẻ ấn tượng miễn cưỡng sao? Với vẻ lấm lét như một con mèo, ông ta nói. “Cô có hai ngày để dọn đồ.”
Katya lên tầng trên với cảm giác tức nghẹn trong lồng ngực đến run người. Cô lánh mình vào phòng vệ sinh nữ và khóa cửa lại. Cô ngồi trên bệ toilet, nó tự động xả nước mỗi khi cô cử động, và úp mặt vào lòng bàn tay. Hít thở nào.
Cơn đau đầu ập đên như búa bổ. Cô đến bên bồn rửa và té nước lên mặt lấy áo choàng lau mặt rồi giậm chân bước ra ngoài hành lang. Cô trở lại phòng thí nghiệm, ngồi vào bàn làm việc của mình. Mở báo cáo trên máy tính. Nhìn chăm chú vào màn hình. Phải mất vài phút cô mới quyết định dứt khoát, nhưng khi đã quyết định xong, cô vơ ngay lấy quai túi xách rồi sải bước ra khỏi phòng.
Chương 41
Nhân viên bảo vệ ở bàn lễ tân luôn có cảm giác khó chịu khi phải cố hết sức để cất lời chào xã giao mỗi khi Mu'tazz đi qua. “Cầu chúc Allah ban phước lành cho ông. Mừng khi gặp lại ông sau bữa trưa, thưa Trung tá.”
Yasser Mu'tazz chẳng hề thích thú với những lời chào hỏi: làm ơn, cảm ơn, ơn Chúa. Ông ta chẳng bận tâm đáp lại nhân viên bảo vệ đó; ông ta chỉ sải bước vào phòng làm việc rồi đóng cửa lại.
Đã từ lâu rồi ông ta nhận ra rằng mình làm việc hiệu quả nhất khi chỉ có một mình, lặng lẽ nghiên cứu trên máy tính hoặc trong thư viện hoặc mày mò những hồ sơ cũ trong những góc khuất của phòng lưu trữ. Ông ta chưa bao giờ thích thú với yếu tố con người trong công việc của mình hết. Những gì mà người ta có thể phát hiện ra từ một mớ giấy nhỏ quả là bất ngờ. Ông ta đã trở nên khá thành thạo với việc rút ra những kết luận về con người thông qua những sự việc nhỏ nhặt nhất. Điều đó vô cùng thỏa mãn, gần như là một nghệ thuật vậy.
Nói một cách khác, anh có thể tóm lại toàn bộ nội dung cảm xúc bằng một từ, qua hình dạng những chữ cái câu tạo nên nó. Mới đêm qua thôi ông ta đã dành cả hai giờ đồng hồ để vẽ chữ fitna. Nó vốn là một thuật ngữ kỹ thuật trong ngành luyện kim chỉ việc loại bỏ xỉ kim loại nhưng giờ thì nó lại mang nghĩa là “hỗn loạn, khổ đau.” Đôi khi nó còn được dùng để mô tả vẻ quyến rũ chết người của một người đàn bà. Nó là một trong những từ không có cách trống, chỉ có một nét liền mạch, những đường cong lượn hợp nhất. Tất cả những dấu chấm biểu thị cho các chữ cái tụ lại trên cùng trông giống như những hạt trang trí trên bánh nướng. Quá dễ để có thể viết những từ đó một cách trang nhã. Nhưng nó cần có sự tàn phá. Ông ta viết một từ đậm nét và xấu xí bằng chất mực đen nhất trên mảnh giấy da màu trắng. Những nốt chấm trông như thể những nốt đậu mùa, còn đường kẻ ngang chính là một vết sẹo. Ông ta nhân nét bút cắt vào mảnh giấy da và để cho mực rì rì chảy trên mặt bàn, nhuốm màu phần còn lại của mảnh giấy da rồi lan đến cuốn sách gần đó. Và ông ta để mặc mọi thứ như vậy. Sự bất mãn duy nhất của ông ta là không kẻ nào hiểu được nghệ thuật của ông ta.
Sau khi nói chuyện với Đại tá Sa'ud ba tuần trước, Mu'tazz đã đi tìm những thanh niên có mặt trên chiếc thuyền kia. Ông ta tìm được và thẩm vấn tất cả bọn họ ngoại trừ hai người: Ali Dossari và Mohammed Wissam.
Những người mà ông ta thẩm vấn đều có bằng chứng ngoại phạm đáng tin cậy vào cái ngày Amina al-Fouad mất tích, cho nên ông ta đã loại trừ bọn họ. Nhưng Dossari và Wissam lại có vẻ không còn tồn tại nữa. Không có bất cứ thông tin gì về hai gã này từ đầu những năm chín mươi. Không hộ chiếu, không thẻ căn cước, không bằng lái xe (tất nhiên loại thứ ba không phải là thứ giấy tờ bắt buộc tại quốc gia này). Không có chứng nhận kết hôn hay chứng tử. Những bức ảnh hiện có của hai thanh niên này đều của trại giam vị thành niên - Wissam có một khuôn mặt thô bỉ, còn Dossari có cái đầu hình quả dưa kỳ quái và đôi tai vểnh sang hai bên. Theo cơ quan cấp thị thực thì hồ sơ lao động cho thấy Wissam, người Ai Cập, đã làm phụ bếp tại một nhà hàng nhỏ ở Jeddah vào cuối những năm tám mươi trong ba năm. Mu'tazz đã cố gắng tìm được chủ nhà hàng đó và phát hiện ra Wissam đã về Alexandria từ mười lăm năm trước. Người chủ cửa hàng không bao giờ gặp lại hắn nữa.
Dossari thì khác. Hắn ta là một công dân, và mặc dù có khả năng hắn ta cũng đã rời đất nước này, nhưng hồ sơ của cảnh sát lại không ghi nhận sự việc đó. Không có lưu trữ nào cho thấy hắn đã từng xin cấp hộ chiếu cả. Mu'tazz thậm chí đã phải nhờ đến dịch vụ bí mật Bộ Nội vụ để có được vài thông tin. Mabahith là cơ quan luôn theo sát mọi người, và có lẽ bọn họ có thông tin gì đó về Dossari. Thậm chí Dossari có thể đã trở thành một thành viên của Mabahith hoặc một điệp viên của Mukhabarat nữa kia. Tuy nhiên người quen của Mu'taz tại cơ quan này đã phản hồi thẳng thắn rằng họ không có bất cứ thông tin nào về gã trai này và hắn cũng không hề làm việc cho họ. Qua tất cả những sự việc đó, Mu'tazz đã kết luận rằng Dossari đã rút vào bí mật và đã đổi danh tính.
Do đó ông ta chuyển sang chiến thuật khác. Ông ta vẫn cho rằng chính Dossari đã đánh cắp chiếc hộp trong nhà kho tại bến thuyền năm 1989. Khi những bộ phận của xác chết kia bắt đầu xuất hiện trong khắp thành phố, cảnh sát đã ngay lập tức tìm đến Dossari. Hắn đã bị bắt trong vụ Osiris, nhưng có vẻ lời khai là bị ép cung và bọn họ cho rằng như vậy là đủ bằng chứng để buộc tội hắn. Lúc đó hắn mới mười tám tuổi. Rốt cuộc thì bọn họ đã phải thả hắn ra. Theo luật thì không nhất thiết bọn họ phải làm vậy, nhưng vị chánh thanh tra là một người nhân hậu.
Những nghiên cứu về tội phạm giết người hàng loạt của Mu'tazz đã giúp ông ta hiểu những tên này sớm có những dấu hiệu của sự tàn nhẫn, thiếu sự thấu cảm và thường được ghi nhận trong hồ sơ của các trường học và cảnh sát vì những tội như chứng cuồng phóng hỏa và hành hạ động vật. Và quả thực, đó là lý đo Dossari đã trên thuyền ngày hôm đó: hắn đã bị buộc tội giết con khỉ của nhà hàng xóm. Nhưng hắn không chỉ giết nó: hắn ta đã đốt mông con khỉ bằng thuốc lá, móc mắt nó, cắt tai và đuôi nó, rồi lột da - trong khi con khỉ vẫn còn sống. Vào những năm tám mươi, phần lớn các bậc cha mẹ sẽ đưa ngay một đứa con trai như vậy đến thầy trừ tà. Tất nhiên hắn sẽ được rửa tội, nhưng cũng cần có một bác sĩ giỏi nữa, mà chỉ có chương trình phục hồi nhân phẩm của cảnh sát mới có bác sĩ như vậy. Hắn đã được chỉ định tới một cố vấn, một ông bác sĩ Saleh nào đấy.
Mu'tazz tìm Saleh và phát hiện ra ông ta đã chết trong một vụ hỏa hoạn tại gia năm 1992.
Ông ta không báo cáo bất cứ thông tin gì về sự việc này với Ibrahim bởi nó chẳng giúp ích được cho ai cả. Ông ta đã lặng lẽ báo cho một người trong đám sĩ quan trẻ, Shaya, rằng đã có những suy nghĩ riêng về hướng điều tra và rằng ông ta đang tìm kiếm một thanh niên trong một vụ án hai mươi năm trước. Shaya đã hứa sẽ để mắt tói cái tên Dossari, nhưng anh ta không có vẻ hứng thú nghe về gã này. Có vẻ như cái tên đó chưa từng được nhắc đến bởi Shaya không phản hồi gì với ông ta. Mu'tazz không hiểu thực ra Ibrahim làm gì với thời gian của ông ta nữa - ngoại trừ việc yêu cầu rà soát kỹ phố Sitteen và quấn quýt với mấy cô ả trong đội pháp y.
Kể từ khi được giao phụ trách vụ án này, ông ta thật khốn khổ. Hiện giờ thì tất cả công việc điều phối nhóm - và việc hối thúc hàng trăm tên quan liêu đần độn trong khắp thành phố này - đã trở thành trách nhiệm của ông ta. Không còn thời gian để suy nghĩ sáng tạo nữa. Đó là công việc của những kẻ khác. Bọn họ phải mang những ý tưởng sáng tạo đến cho ông ta, và ông ta phải nói với bọn họ rằng những suy nghĩ đó mới sắc sảo làm sao và sau đó đảm bảo những ý tưởng đó sẽ được thực thi. Tất cả đều là một mớ những công việc vớ vẩn, quả là vậy. Đây còn chưa kể đến việc phải trở thành trung tâm của sự chú ý, hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng nhún nhường bẩm sinh của ông ta.
Riyadh đã đảm bảo với ông ta rằng việc này chỉ là tạm thời, nên ông ta đã nhận lời. Ông ta cố gắng không phàn nàn với ai. Ông ta cố gắng để không mất bình tĩnh hay bắt đầu âm thầm căm ghét toàn bộ cái cơ quan này. Ông ta tập trung tâm trí vào việc vận hành mọi công việc. Nếu có điều gì ông ta tin tưởng, thì đó là khi con người đặt mình vào con đường của sự ngay chính, Chúa sẽ giúp. Con người chỉ cần để ý tới những tín hiệu của Người mà thôi.
Majdi đã có một bức ảnh lớn chụp địa điểm ngoài sa mạc từ trên cao theo tư thế các chữ cái của các thi thể phụ nữ đó. Bức ảnh đã chiếm toàn bộ mặt bàn làm việc của ông ta, chỉ còn lại một khoảng nhỏ để đặt chiếc đèn bàn và điện thoại. Sau phát hiện của cô Hijazi, Mu'tazz đã vô cùng tức giận chính mình. Ông ta đã dành đủ thời gian để suy nghĩ về vụ án này, xem xét các bức ảnh, đọc các báo cáo, đến mức đáng lẽ phải tự nhìn ra được quy luật ấy. Đó chính là sở trường của ông ta - nhận ra mọi thứ trên giấy tờ. Nhưng ông ta đã bỏ lỡ nó, thật là ngu xuẩn. Rốt cuộc thì ông ta đã tự nhủ sự lầm lạc thuần túy bởi một lỗi như vậy không phải lúc nào cũng xảy ra với ông ta và ông ta đã tự tha thứ cho mình. Sau đó ông ta đã bắt tay vào việc nghiên cứu các bức ảnh.
Có hai điều rõ ràng. Thứ nhất, tên giết người nghĩ rằng hắn là một nghệ sĩ. Một trong những nghệ sĩ hiện đại như Baldaccini(1) một người không chỉ ràng buộc với vải và màu vẽ mà còn đặt dấu ấn về tầm nhìn nghệ thuật tại những không gian công cộng, như các bùng binh hay những toà nhà, và đài phun nước bên bờ Biển Đỏ với một công trình mà người ta vẫn gọi đùa là “cái chậu rửa mông của nhà vua” đó. Trong vụ án này thì lại chính là sa mạc. Nó đặt tên giết người vào loại những kẻ ngạo mạn, phóng túng mà một ngày nào đó sẽ bắt đầu nhào nặn những đám mây thành hình những dương vật, hoặc cắt tỉa toàn bộ các cánh rừng để vẽ nên những thân thể phụ nữ trần truồng, ơn Chúa là chính quyền luôn kiểm soát những gã này.
(1) César Baldaccini (1921-1998), nhà điêu khắc người Pháp.
Thứ hai, cho dù thông điệp có mang tính tôn giáo và người ta vẫn nói rằng hắn là một kẻ cuồng tín đi chăng nữa, thì rõ ràng hắn vẫn chẳng là cái gì hết. Hắn ta hoàn toàn ngược lại: một kẻ bội giáo. Mu'tazz dám cá toàn bộ lương tháng của mình rằng tên giết người đã từ bỏ tôn giáo từ lâu lắm rồi. Sự nhẫn tâm rõ ràng và mức độ tàn ác của những vụ giết người đó không phải là vấn đề; nếu địa điểm ngoài sa mạc đó là những tấm vải sơn dầu của hắn, thì nó thật là hồ đồ bởi một nguyên do chủ yếu: nó mô tả hình dáng con người. Bất kể một sự mô tả về dáng hình con người nào đều có nguy cơ gần với sự sùng bái thần tượng, và vì lẽ đó phải bị cấm. Mọi sự đã là như vậy kể từ khi có đạo Hồi.
Như vậy là bọn họ đang tìm kiếm một tên nghệ sĩ hồ đồ, không hơn.
Cách đây một tuần, ông ta đã bắt đầu gọi điện tới các viện nghiên cứu, các nhà trưng bày nghệ thuật và các thợ thủ công rèn kim loại.
Chắc chắn là có rất nhiều tay nghệ sĩ hồ đồ đang lẩn trốn trong những ngóc ngách khác nhau ở thành phố này, nhưng sẽ không có quá nhiều kẻ tự cao tự đại và phóng túng đủ để thực hiện điều gì đó hiến nhiên như thế này. Những kẻ như vậy có khuynh hướng muốn được chú ý, và hắn sẽ trông đợi vào vết nhơ đó. Ông ta tin vào Chúa. Một lời cầu nguyện lúc nào cũng vạng lên trong tâm trí ông ta: Tạ ơn đức Allah. Người sẽ cho ngươi thấy chỉ dấu của Người và ngươi sẽ nhận ra chúng.
Thở dài, ông ta mở tập tài liệu ra và bắt đầu làm việc.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian